Chương 6: Ngôi mả cũ
- Thành ra cái hồi cụ án nhà mất thì cậu mới có ba tuổi.
- Dạ.
- Thế cậu không rõ cái người phân kim cắm huyệt cho cụ
án hồi ấy là ai à?
- Dạ, thưa không.
- Tôi thấy cậu là người còn ít tuổi, mà có chí như thế,
tôi có bụng yêu. Bồ côi cha, bồ côi mẹ, sống cái tuổi thơ ấu giữa cảnh loạn lạc
và nghèo túng, vậy mà vẫn có chí theo đuổi được việc sách đèn, tôi lấy làm khen
lắm. Giá như con nhà khác thì lêu lổng và hỏng từ bao giờ rồi còn gì. Cái thiên
lương của cậu tốt lắm.
Cậu Chiêu ngồi hầu chuyện cụ Hồ Viễn, lòng buồn rười
rượi. Mồm thì dạ vâng để giữ lễ mà óc thì bận nghĩ giật lùi về cái hồi nhỏ bé của
mình. Cụ án ông mất, cụ án bà cũng mất theo liền. Cách nhau không đầy ba tháng,
cậu Chiêu mang luôn hai cái tang lớn... mấy ông chú, bắt đầu phá tán cái gia
tài cỏn con... một mình ở với chị, lúc ấy chị mới có mười hai tuổi... bấy giờ lại
đang loạn lạc. Trăm họ tan lìa... Bao nhiêu ông già bà cả chạy giạt vào cái
thăm thẳm của rừng Hưng Hoà. Màn trời... có những vòm lá cây âm u. Chiếu đất...
có những cỏ áy, sim lụi và những cành cây mục bở với những đàn kiến lửa nối
nhau ngày đêm bò liền liền như là quan quân đi tiễu giặc. Nhớ đến cái mình sống
hồi ấy giữa cảnh ly loạn, cậu Chiêu hình dung thấy rõ mồn một cái đứa trẻ bồ côi
rất đáng nên tội nghiệp kia. Cậu đấy. ừ, tưởng là chết được lắm, chứ có ai ngờ
đâu còn sống được đến bây giờ và lại còn được ăn học đến nơi đến chốn nữa. Cái
thân một người con quan lúc bấy giờ thật đã khốn cực đủ trăm phần.
Ông cụ Hồ Viễn vẫn nói và uống. Càng nói chuyện, cụ
càng uống rượu; càng uống rượu, cụ càng được nói chuyện nhiều. Mỗi lúc bị hỏi gặng,
cậu Chiêu lại như tỉnh cơn mơ nhỏ.
- Dạ?
- Thưa vâng.
Rồi cậu Chiêu lại vẫn không quên cái cảnh màn trời chiếu
đất của ngày bé bỏng. Dưới cái màn trời triền miên những kinh động ngờ sợ, ánh
sáng tối và ẩm ướt của rừng tị nạn đổ xuống một cái đầu xanh đang ngậm chùm tóc
mới vừa tơ mà đã nhuộm màu tang. Trên cái chiếu đất dằng dặc mùi côi cút, một cặp
chân có khóa bạc vòng vàng đang in đôi gót đỏ như son lên cái rêu nhầy nhờn, của
ngày đau khổ và lẩn lút. Có những ngày liên tiếp cậu Chiêu và chị - cô Tú - phải
nấu củ rừng ăn với cháo chó, những con chó trung thành cùng theo chủ vào ruột rừng
Hưng Hoá.
- Cậu còn nhớ chỗ để ngôi mộ cụ nhà đấy chứ?
Cậu Chiêu choàng ngồi thẳng mình lên và ngừng tay quạt
ruồi chờn vờn trên mâm cơm, vội thưa với cụ Hồ Viễn:
- Dạ thưa cụ, cháu nhớ lắm. Có ai mà lại đi quên được
mồ mả cha ông. Vả chăng, vẫn còn có tấm bia ở đấy.
- ờ. Đấy là xứ Đồng Cồn phải không? Từ ta đây mà xuống
dưới xứ Đồng Cồn thì đi như thế nào nhỉ?
- Dạ như chúng tôi đi bộ thì mất trọn một ngày, nếu
không nghỉ ở dọc đường. Nhưng cụ có đi thì phải thuê cáng. Và đi cáng đòn ba
thì tinh mơ đi, độ quá giờ ngọ đã tới.
- Thôi được rồi, để hôm nào mát trời, tôi và cậu sẽ
xuôi xuống Đồng Cồn. Ngôi mộ cụ án thể nào cũng phải phúc lại. Mộ để như thế, hỏng
hết. Ai lại tọa như thế, hướng như thế bao giờ. Minh đường có mà thành ra nghịch
thủy hết cả. Cậu nói qua qua thế, tôi cũng đủ rõ rồi.
Mâm rượu vừa bưng đi xong, cậu Chiêu kính cẩn mời cụ Hồ
qua giường bên nghỉ.
Bấy giờ cậu Chiêu mới lùi vào nhà trong qua bên trái
buồng cạnh. Cô Tú ngừng tay gieo thoi trên khung cửi vải, vuốt mái tóc xuề xòa
dưới vành khăn nâu mỏ quạ.
- Thôi, em đi ăn cơm sớm đi chứ. Cơm ủ trong chăn đã
ôi hết cả rồi. Có cái đĩa nõn khoai kho tương, chị để phần cho em một ít đấy.
- Em nhớ ra rồi. Hôm nay ngày rằm, chị ăn chay.
Cô Tú cười. Nét cười dè dặt lẫn có mùi vị của hy sinh.
Với cô Tú, cuộc đời giờ đã hết tất cả xán lạn rồi. Bởi
vì đời đã sớm đòi hỏi cô nhiều về bổn phận. Cô nhất định không đi lấy chồng và
vui lòng sống vậy cho đến lúc nào cậu Chiêu em đi thi được và làm nên được. ở
trong cảnh côi cút với sự thanh bạch, cô Tú ngày ngày dệt vải, và khâu thuê vá
mướn cho người xóm làng. Những lúc rời tay kim tay thoi thì cô lại lên tiếng ngầy
ngà đến người em lúc quên mặt chữ sách hay là bỏ dở một trang quyển bài viết.
Cái bây giờ của cô Tú đã là không đáng kể và cô chỉ sống bằng mong chờ về cái
mai sau của cậu Chiêu. Dưới quang đèn dầu bông, nhiều khi người em đã rầu lòng,
tỏ lời hối lỗi vì những lúc làm phiền lòng cô Tú mà cậu coi như là mẹ, một người
mẹ rất trẻ, đầy âu yếm và thừa đức tin vào mình.
Chị ngồi chờ em ăn xong bữa cơm rau dưa, đưa tăm nước
cho em rồi mới hỏi chuyện về việc ông cụ Hồ Viễn đã nhất định hôm nào thì đi
xem lại ngôi mộ cha cất ở Đồng Cồn chưa. Cậu Chiêu thở dài, tỏ vẻ sốt ruột:
- Cụ Hồ ở nhà ta có đến hơn một tháng rồi mà cứ nay lần
mai lữa mãi. Em thấy tốn nhiều quá chị ạ.
- Em coi chừng lời nói, kẻo cụ Hồ nghe thấy thì uổng cả
cái bụng thành kính của mình đi.
- Chị thử nghĩ, mỗi ngày hai bữa rượu và mỗi phiên chợ
lại một bữa thuốc phiện. Ông cụ Hồ khó tính quá. Thuốc phiện nếu không phải là
thứ một lạng đựng vào cóng thì không hút. Gớm, không hiểu ông cụ Hồ để móng tay
làm gì mà dài đến thế. Móng tay út lá lan của cụ uốn hai vòng như râu rồng. A
chết chửa, hình như hôm nay quên không mua chanh để chút nữa cụ dậy rửa móng
tay.
- Có trong kia rồi.
- May quá. Chị chưa thấy cụ Hồ gắt gỏng mỗi khi bưng
thau nước ra mà không kèm vào vài quả chanh.
- Em phải nên chiều cụ. Những lúc đêm hôm, em chịu khó
hầu hạ cho được vừa lòng cụ. Cả nhà có hai chị em, chị là gái, vậy chị trông cậy
ở em. Em nên biết, rước được cụ Hồ về nhà khó lắm.
- Nhà ta nghèo, cái đó cụ Hồ rõ lắm rồi còn gì nữa. Vậy
mà cụ bày vẽ ra nhiều quá. Một tháng, hai tháng, cố gắng thì may cũng chiều đãi
được chu tất. Nhưng em chỉ sợ cụ cứ ở lỳ mãi đây, hết trông trời lại đến xem lịch,
mà vẫn không chịu đi xem hộ ngôi mộ của thầy, rồi thì sao?
- Chị ngờ cụ Hồ muốn thử đến lòng kiên nhẫn của chị em
nhà mình, xem mình có được chí thành không. Tại sao, ở vùng đây, khối người
giàu có, cụ không thèm tới, tuy họ chèo kéo. Em nên nhớ đến câu này nữa. Là hồi
xưa, cụ Hồ đây có biết thầy lắm.
- Vậy hở chị? Sao em không nghe chị nói bao giờ. Chị kể
cho em rõ.
- Cụ Hồ nguyên là tướng Cờ Đen. Tên cụ khác kia. Chú
Thủ nhà có biết vì nhiều lần chú Thủ có nói đến rồi. Nhưng chị quên...*. Một
cái cờ, cán dài hơn con sào, lá to bằng cả một cánh buồm thuyền lớn; lụa chập
ba sợi xe làm một rồi mới dệt, rồi mới nhuộm đen. Đấy, vì thế mà gọi là Cờ Đen.
Viền chung quanh lá cờ to tướng là những hàng móc sắt, sắc hơn lưỡi câu. Người
ta nói chuyện lại rằng cụ Hồ, hồi còn làm tướng quân Cờ Đen, mỗi lúc cụ trương
lá cờ đầu khi xuất quân, trông oai phong lẫm liệt. Bên thắt lưng điều, cụ giắt
hai khẩu súng. Phía bên trái là một khẩu đoản mã và phía bên phải là một khẩu
súng thập bát hưởng bắn một lúc những mười tám phát liền*.
Có lẽ hồi nhỏ, những lúc ở trong thành xây đá tổ ong tỉnh
Sơn, hồi thầy còn ở chức, chị cứ nghe thấy tiếng kèn tàu và loa đồng và trống
trận nổi lên nhiều, là chính vào lúc quân Cờ Đen tế cờ ăn mừng được trận như thế.
Quân Cờ Đen có cái tục tế cờ lúc thu quân... Nào ai biết. Thấy các ông già bà cả
bảo thế.
- Cụ Hồ mà tài giỏi và dữ thế kia?
- Vậy mà những lúc việc quân thong thả, cụ mặc áo dài
"sường xám", đội mũ "sường chí" có quả bông đỏ, cầm quạt
vào chơi trong dinh với thầy, thì trông nhàn nhã và văn vẻ lắm. Cụ Hồ yêu thầy
vì thầy viết chữ rất tốt. Chú Thủ thường nói chữ thầy viết có gân có mác như chữ
lá thiếp. Bao giờ thầy cũng cầm bút đứng thẳng cái quản, chỉ thẳng vào đầu mũi
và cùi tay không tỳ xuống văn kỷ. Nên những nét sổ rất khỏe và rất thẳng. Hôm
nào em giở cuốn gia phả ra mà xem thì rõ.
Cậu Chiêu nghe chị kể chuyện, thích lắm. Vì chung
quanh cái thân thế một ông già mà cậu vẫn chỉ cho là một ông thầy địa lý khó
tính chỉ đáng trọng một cách vừa phải mà nhiều khi còn gượng ép nữa kia, bây giờ
cậu thấy cả một huyền sử bọc quanh một lão tướng võ nghệ cao cường và bí mật.
Cái ông tướng tài giỏi ấy, ngày ngày cậu gần kề và chuyện trò cùng. Vậy mà hơn
tháng nay, cậu không biết gì cả.
Giàn bầu nậm ở ngoài sân, dây leo và lá chằng chịt lấp
chật ô giàn nứa, đã làm dịu hẳn cái nắng tháng tư ở trước mặt nhà. ánh nắng đổ
xuống giàn, khi lọt xuống sàn bị cái cốt xanh ngắt của cây lá lọc qua một lượt,
rồi đổ dồn và vờn vào áo vải trắng dài cậu Chiêu đang ngửng đầu ngắm những quả
bầu nậm buông thõng xuống ngang mặt. Cái áo vải trắng cậu Chiêu đã biến thành một
áo lụa màu xanh của người phong lưu và đa tình. Đấy là cái màu dịu mát của chất
ngọc bích; đấy là màu xanh ở những cánh đồng lúa non ngút ngàn của những xứ yên
ổn không bao giờ có nạn binh lửa.
Gió nam từ ngoài lũy tre già thưa đưa vào, làm va đụng
vào nhau những bình rượu của Tự Nhiên. Những quả bầu mà được cứng lần cùi như
chất vỏ cây khô, thì mỗi khi cơn gió vèo đẩy những bình rượu ấy văng cụng vào
nhau, người ta sẽ nghĩ ngay đến cái hình và cái tiếng của lũ khánh đất nung và
cá đất nung ở cái sân cây cảnh một gia đình thanh bạch.
Cậu Chiêu nắm từng quả bầu nậm. Lúc buồn tay, lắc quả
bầu thật mạnh, ở trong nghe như có tiếng có nước ọc ạch. Trông sướng mắt và có
thể vui tai đến chừng nào! Chẳng trách được, chiều chiều ông cụ Hồ Viễn cứ ra
sân đùa mãi được với lũ bầu nậm lòng thòng trước khung cửa sổ như nhắc nhỏm một
người đã mệt với cuộc sống chỉ còn nên uống rượu chơi thôi. Trái bầu nậm còn
tươi dưới lỗ giàn là một cái bình rượu tạc bằng khối ngọc bích đều sắc, nhẵn và
bóng!
Giời chiều, đứng nắn bầu nậm cho cụ Hồ, cậu Chiêu thấy
có hứng thú. Vì cậu đã bắt đầu mến được ông già Hồ. Trước kia cưỡi ngựa, cầm cờ,
đánh Tây, bắn súng; bây giờ đi phân phát hạnh phúc bằng cách tìm đất để mả cho
những kẻ thất thế, và lúc nhàn rỗi thì uống một đôi rượu của những người biết
nhớ ơn mình.
Xé mảnh vải điều, buộc vào cái nấc ngẫng quả bầu, cậu
Chiêu nói với cái vắng vẻ của buổi chiều nhà quê: "Thắt chặt dây lại tị nữa,
thì dáng bầu sẽ thon. Nó chỉ nhớn được theo chiều dài. Trôn quả này méo, sẽ làm
tội mình ngày mấy buổi ra đây nắn mãi cho nó bớt tật đi".
Cụ Hồ thức giấc, ra vườn, thấy cậu Chiêu đang nắn cái
quả bầu mình đã rấm sẵn từ tháng trước, liền nói:
- Tại chị em nhà cậu tặng tôi mấy cái chén ngọc liệu
nên tôi mới nghĩ đến việc lấy bầu nậm. Cái chén uống rượu của nhà này phải dùng
với cái bình đựng rượu cũng của nhà này. Cậu biết chưa!
Cô Tú nghỉ tay thoi, bước ra nghe chuyện, đỡ lời em:
- Dạ thưa cụ, cảnh nhà nghèo bí, cũng chẳng còn có gì.
Có bốn cái chén ngọc là của gia bảo còn lại, chị em chúng tôi kính biếu cụ gọi
là đền đáp mới được có một chút đó mà thôi. Sau này nếu trời thương lại và nhờ
được mạch đất tổ tiên có cơ hồi lại, nếu nghiệp nhà có thể trung hưng lên được,
thì chị em chúng tôi còn phải tạ cụ nhiều. Có lẽ quả bầu nậm ở giàn này, chỉ là
mẫu vẽ trước của một cái bình bằng ngọc thực mà sau này chúng tôi phải kính
dâng cụ.
Cụ Hồ lấy làm thưởng thức cái câu cô Tú nói một cách
trung hậu mà cũng rất văn hoa. Người như thế mà còn nghèo mãi thì còn để thiệt
thòi cho thế gian nhiều. Cụ Hồ nghĩ mà thấy buồn buồn.
Hai cái sừng trăng đã mở to, đã đầy dần. Rồi vừng
trăng tròn vẽ lên trời, lần thì cái quầng, lần thì cái tán. Thế rồi nó khuyết ở
đầu ngọn tre, những lúc gió sớm giục canh gà gọi nước bể dâng lên. Trăng tháng
tư đã gần hết một tuần. Trong cả một cữ tháng tư này, cô Tú đã thức rất khuya để
dệt cho được nhiều tấm vải, để góp công nhật của mình lại cho được thừa thãi, để
có đủ một số tiền thuê cáng cho cụ Hồ và em trẩy xuống Đồng Cồn, nơi để phần mộ
cụ án ông - cụ án cha mình lúc nằm xuống trả lại lộc cho Triều đình, em mình mới
có ba tuổi.
Cái ngày đi Đồng Cồn đã đến.
Cậu Chiêu ra đi từ lúc tối đất, lúc hàng xóm mới nổi lửa
thổi cơm cho thợ gặt, bây giờ đã trở về với bốn năm người già cả rách rưới. Thấy
cô Tú, bọn người già nua kia đều kính cẩn chào.
- Các bác đã xuống đấy ư? Chắc cậu Chiêu cũng đã nói
rõ muốn mượn anh em ngày mai làm cáng hộ xuống xứ Đồng Cồn. Hai chiếc. Chiếc của
cụ Hồ thì phải đi đòn ba. Cụ đẫy người và có tuổi. Vậy các bác định lấy bao
nhiêu?
- Đồng Cồn. Thế này là phải mất những ba trạm. Đại Đồng
này, Trạm Trôi và Mai Dịch này. Hai trạm ngắn và một trạm dài. Và một con đò
ngang.
- Phải, đò sông Hát. Chiếc cáng đòn ba, sau khi nghỉ ở
Mai Dịch, sẽ đi luôn xuống trạm Hà Trung.
- Thưa cô, thế là về tận Hà Nội?
- Có một mình cụ Hồ đi về Hà Nội thôi. Cậu Chiêu nhà
đi đến Mai Dịch rồi trở về.
- Thế này thì cô cứ cho anh em một lượt mỗi trạm ngắn
là một quan và quan năm tiền một trạm dài. Còn như cáng đòn ba thì xin tùy cô định
cho. Ngày xưa, anh em đã có dịp được hầu cáng quan án nhà nhiều chuyến lắm. Cụ
ngày xưa thường có săn sóc đến anh em chúng tôi. Giờ là ngày mùa, nhưng được
tin cô gọi, anh em cứ xuống ngay là vì anh em nghĩ đến cái tình quan án ngày
xưa hay thương đến. Còn tiền nong, thôi, cô cho thế nào cũng được. Chúng tôi
không dám kỳ kèo.
Họ ăn trầu, vừa thổi lửa nùn rơm vặn ăn thuốc lào, vừa
ngồi xổm thưa chuyện bên khung cửi. Thoáng thấy cái ngáng võng ngà gác ở trên cột
bương, họ lôi xuống ngắm đi ngắm lại và nói với nhau:
- Này bác Xã, cái ngáng ngà này không phải cái ngáng
võng điều của quan án ngày trước. Nó sứt mất một đầu kia mà. Bác còn nhớ chứ?
Cái lần qua đò sông Hát, trời mưa gió to quá, tôi lẩy bẩy trượt chân, ngã khuỵu
xuống. Một đầu đòn cắm hẳn vào bùn. Vỡ cái nấc chạm rồng.
Một người quay lại phía cô Tú:
- Cụ án nhà kể ra là người có bụng thương kẻ dưới lắm.
Con tưởng cứ kể như vị quan khác, thì đến làm tội chứ chẳng phải chuyện chơi
đâu.
Sau cùng, cuộc thuê cáng ngã giá đúng tám quan, một
cáng đòn ba đi thấu đến trạm Hà Trung và một cáng đòn đôi chỉ đi đến làng Vòng
thôi. Và sớm mai bắt đầu khởi hành.
Bữa cơm chiều hôm ấy là bữa cơm cuối cùng đãi một ông
thầy địa lý. Cơm có rượu ngon, rất nhiều, và có cả một cái sỏ lợn. Cô Tú và cậu
Chiêu cùng ngồi ăn với cụ Hồ vì cụ muốn thế. Cậu Chiêu thấy cụ Hồ hôm nay lấy
cái bộ áo lề chí sẩu ra mặc, trông cụ lại càng có vẻ Tàu lắm. Thảo nào mà ngày
xưa cụ Hồ là tướng Cờ Đen!
Cô Tú còn ít tuổi mà đã có nét mặt và dáng dấp của người
góa trẻ phải nuôi con nhỏ. Trông cô hôm nay già thêm. Lòng tưởng nhớ vong linh
cha và thương em và tủi cho mình, ở người cô, chiều bữa nay oằn nổi lên nhiều
hơn tất cả bao giờ. Thỉnh thoảng cô quay mặt ra ngoài hỷ mũi kín đáo. Rồi cô lấy
dải yếm đưa qua cặp mắt đỏ hoe. Cụ Hồ vẫn cười nói, uống rượu.
- Cô Tú lẩn thẩn lắm. Ông Giời có đóng cửa ai bao giờ.
Chị em nhà cô, thế nào sau này cũng khá.
Đến đây thì cô Tú khóc lên thành tiếng. Cụ Hồ nói tiếp:
- Ngày mai, tôi xuống thăm lại cái kiểu đất ở Đồng Cồn.
Xong rồi tôi xuôi luôn Hà Nội. Tháng sau, tôi sẽ về qua đây, để chỉ bảo cách
xoay lại ngôi mộ... Cô đừng nên vội nói đến chuyện tạ ơn. Còn về lâu dài. Đáng
lẽ bộ chén ngọc đó tôi không nhận đâu. Lấy những cái gì là gia bảo của người
làm của mình là một cái tội. Nhưng vì nghĩ rằng, trong lúc chị em cô còn nhỏ tuổi,
chửa chắc đã giữ nổi, thiếu gì kẻ dòm ngó. Thôi tôi cũng giữ hộ cô và cậu. Độ
mươi năm sau, lúc đất có thể phát được rồi, tôi sẽ trở lại đây. Lúc bấy giờ mới
là lúc cô Tú nên nói đến việc đền đáp công ơn. Lúc bấy giờ tôi sẽ trả lại cô Tú
và cậu Chiêu bộ chén ngọc liệu. Cụ án nhà lúc sinh thời quý nó lắm. Đi lại với
cụ luôn luôn, mà cụ án nhà chỉ mang chén ra dùng với tôi có hai lần. Nếu tôi
không sống được đến ngày đó, mấy đứa con tôi sẽ đưa chén ngọc đến làm của tin để
nhờ cô Tú giùm giúp cho chúng. Cái đức nhà tôi xem chừng cũng bạc thế thôi. Có
lẽ đến đời con tôi là không còn gì nữa. Cô Tú và cậu Chiêu nhớ hộ tôi câu nói
chí tình này.
Cô Tú vờ đứng dậy, vừa sụt sịt, vừa xếp hành lý cho cụ
Hồ mai xuôi sớm. Trong cái tráp sơn đen, cô đã chèn nhiều giấy bản vào kẽ tráp
để chén khỏi va đụng lúc đi đường. Rồi cô xếp luôn cả quả bầu nậm vỏ đã khô và
ruột đã tóp lại. Quả bầu mới hạ khỏi giàn được mấy bữa nay.
(*)
(* *)
Hai chiếc cáng đi từ sớm, qua đò sông Hát, đã gác đầu
đòn lên mấy cái ấu cáng cắm sẵn ở trước một cái quán nước chỗ Trạm Trôi. Cậu
Chiêu vội mời cụ Hồ vào quán nghỉ và tay cậu vẫn khư khư cái la bàn có vẽ bát
quái đồ của ông thày Tàu.
Mấy người bộ hành có vẻ học trò nghèo, ngồi ăn bánh ở
quán, đang đố nhau một vế câu đối mà một người vừa tức cảnh nghĩ: "Ngồi
nghỉ Trạm Trôi ăn bánh trôi". Ông cụ Hồ xòe cây quạt thước, quạt quạt và bảo
cậu Chiêu soát lại quân còn lại của ván cờ tưởng đã đến lúc gần tàn cục. Từ sớm
tới giờ, muốn quên cái đằng đẵng của mấy thôi trạm trên đường xứ Đoài, ông cụ Hồ
và cậu Chiêu đã đánh với nhau mấy ván cờ không có quân đi, không có bàn bày. Họ
đã đánh cờ bằng miệng chứ không phải bằng tay đụng quân. Khi mỗi người đi một
nước thêm cho ván cờ tưởng, họ lại vén cái rèm cáng, nghển cổ ra ngoài nói chõ
sang cái cáng đồng hành đi ngang hàng.
- Xa cửu bình bát.
- Tốt thất tiến nhất.
Bây giờ ngồi soát lại quân của mỗi người, thì cụ Hồ
còn một xe và hai pháo. Và cậu Chiêu còn hai tốt đã sang hà và một ngựa một
pháo. Hai bên sĩ tượng đều song toàn.
- Cậu rồi ngày sau khá. Cứ một cái lối đánh cờ của cậu
tôi cũng thấy được một phần cái tương lai của cậu. Nhiều nước cờ bắt bóng, chiếu
rứ, có vẻ tài tử lắm. Tôi nghiệm ra cậu không hay rình chiếu bí. Đáng để ý nhất
trong lối xuất quân, là cậu đánh mấy ván đều vào pháo đầu cả. Người hào hùng
đánh cờ bao giờ cũng vào ngay pháo đầu. Đánh cờ tức là người đấy. Rồi cậu cứ
nghiệm mà xem, trong mười kẻ tầm thường, nhút nhát, không khoáng đạt là có đến
chín người ghểnh tượng ở nước đầu.
Cái xóm hàng quán chỗ Trạm Trôi đã lùi lại trong nắng
lòa của trời hè. Hai chiếc cáng vẫn nhấp nhô xuôi về phía phủ Hoài.
Gần tới phủ Hoài thì xong một ván cờ nữa. Cậu Chiêu
thua, sắc mặt vẫn tươi tỉnh. Cụ Hồ thì nghiêm trang.
- Cậu thua vì đã khinh thường con tốt biên của tôi và
để nó lọt qua hà. Rồi lại cho nó nhập được vào cung. Một con tốt lọt qua sông
là cái giá trị nó bằng nửa sức con xe rồi. ở đời không nên khinh thường cái gì.
Con tốt mà sang hà, tức là đứa tiểu nhân lúc đã đắc thế. Tha hồ mà phá phách. Mạng
nó đổi lấy quân nào nó cũng lấy làm sở nguyện rồi kia mà.
Cậu Chiêu cười xoà, cụ Hồ mệt mỏi chợp giấc. Cáng vẫn
song song trên đường dài.
Con đường xứ Đoài, cát bụi nhiều quá. Được một thôi nữa,
bỗng cụ Hồ hỏi sang bên chiếc võng gai cậu Chiêu:
- Cậu thường có hay đánh cờ đất không? Cờ đất khó hơn
cờ bàn; phải tinh lắm mới đánh nổi. Để tới vụ xuân sang năm, tôi sẽ rủ cậu lên
Hưng Hóa đấu cờ với một người bạn gái bằng trạc tuổi cậu. Cô ta khiến đôi ngựa
rất nhanh, và có cái nước mã ngọa tào lạ lắm. Mà cưỡi ngựa cũng rất tài.
Trời vẫn nắng như rang.
Thế chốc nữa, ở làng Vòng cậu lại ngược ngay về Sơn,
thì mãi đến hết canh một mới tới nhà đấy nhỉ?
- Dạ thưa cụ, có lẽ đêm nay chúng tôi phải nghỉ đêm ở
làng Nhổn. Chị tôi dặn lúc về thì tiện đường rẽ qua vào đấy thăm ông Cử hai và
nhân tiện đòi bộ Lữ hành thi tập của thầy tôi làm hồi theo đoàn sứ qua Bắc
Kinh./.
full-width
Đăng nhận xét