Chương 3: Thả thơ
Cái buồn thường không mấy khi xẩy đến một cách đơn chiếc. Cụ Phủ bà vừa mất vào quãng đầu xuân, cỏ xanh chưa đủ che kín mặt nấm mộ mới, thì cuối xuân năm ấy, cậu Chiêu lại cũng qua đời. Vì những luật lệ về luân lý gia đình vẫn còn ứng dụng được dưới suối vàng thì bên kia cõi đời này, linh hồn cậu Chiêu chí hiếu đang được yên tĩnh để hầu dưới gối một linh hồn chí từ. Và trên trần, có một gia đình đang lúng túng vì sự hiu quạnh. Bây giờ cụ Phủ ông đã lâm vào cái cảnh gà sống nuôi con một. Nguyên cụ Phủ được hai người con: cậu Chiêu không may sớm cướp công sinh thành, để lại cho cha một người em gái bồ côi mẹ, đã đứng tuổi mà chưa có dịp nào xuất giá. Trời đất ôi, trên mấy gốc tre cằn không đủ gây thành một bụi ấm, trận gió thanh bạch ngày ngày cứ lào rào thổi mãi.
Cụ Phủ ông là một người mà học
lực và chính tích chấp được cả bạn đồng liêu một thời; cô Tú là một thiếu nữ
con quan mà cái tài làm thơ phú theo một gia sáo vững vàng, mà cái hạnh về môn
nữ công đủ làm vinh dự cho một gia phong. Nhưng ông Giời thích thừa trừ đã buộc
ông Phủ phải nghèo và cô Tú phải xấu. Và những lúc này, người ta không mấy ai
nói đến tài và hạnh và thường chỉ hay nhắc đến chữ phận và chữ duyên.
Tiếng trống phủ trên lầu canh
cứ điểm đều những tiếng vô vị vào một tư thất lạnh lẽo. Gian nhà giữa cụ Phủ
Ông đã thâu canh dài làm bạn với thánh hiền bên án sách leo lét ngọn đèn; trái
nhà phía tây, cô Tú âm thầm ngồi vấn chuyện với bóng in trên lá màn vải xô. Có
những đêm mưa to gió lớn làm nhòe những tiếng trống phủ cầm canh, cô Tú rời
phòng mình, qua gian giữa gây một lư trầm cho cha. ở gian giữa tư thất liền có
tiếng ngâm thơ:
Cứ đốt lò hương cho tới sáng,
Thử xem mưa gió tới bao giờ1.
Nhưng có một đêm rất gần đây,
tiếng trống phủ thành hết quấy quả canh dài cụ Phủ và cô Tú nữa. Người cha đã
cáo quan về vườn rồi. ở một xứ quê buồn tẻ kia, bây giờ có một ông đồ già ngồi
dạy trẻ và một cô con gái ngày ngày ngồi trong nhà gỡ một ống tơ vàng hay là chạy
ra vườn bứt ít lá dâu nó cũng già cỗi theo cái cảnh người. Bây giờ muốn nói đến
cụ Phủ già đã cáo lão về hưu, người làng chỉ gọi là quan Nghè Móm.
Cụ Nghè Móm thường dạy học vào
buổi sớm. Cô Tú săn sóc mọi việc trong nhà cũng vào buổi sớm.
Buổi chiều đến cô Tú đi chợ,
làm cơm và mua luôn cả đồ ăn thức dùng cho buổi sớm hôm sau nữa. Cụ Nghè Móm ở
nhà nhàn rỗi dùng thời giờ vào việc sao một lá số, gieo một quẻ bói hay là kê một
đơn thuốc cho người làng. Có một buổi chiều, một người bạn đồng song cùng ở
vùng ấy, nhân bị trời mưa dầm giữ lại nhà cụ Nghè Móm, đã nói với chủ nhân:
- Dăm ba tên học trò nhép này,
lấy gì làm đủ sống. Trà tàu, rượu cúc, cây cảnh và hình như bác vẫn chưa bỏ được
cái chứng thắp nến bạch lạp để đọc Đường thi sách thạch bản thì phải, lâu nay
có đi đâu xa không?
Cụ Nghè Móm cười. Người bạn
già rịt mồi thuốc chặt xuống nõ điếu, tiếp:
- Tôi có một chuyện này muốn
nói với bác từ lâu lắm, nhưng chỉ sợ bác chê là cô lậu.
Cụ Nghè Móm ngừng tay mài hòn
son trong đĩa, chăm chăm nhìn bạn.
- Bây giờ tổ chức những cuộc
chơi thả thơ, ý bác nghĩ thế nào?
- Cũng khó lắm. Hồi tôi còn tại
chức, có lúc thì tôi đánh thơ ở nhà, có lúc thì lên quan Đốc trên tỉnh, không mấy
tháng là không có một cuộc hội họp. Mà tôi nghiệm cái giống thả thơ càng hay chữ
càng hay thua cay. Có lắm đêm tôi mất đến mười mấy quan tiền đồng mà không
trúng lấy được một chữ.
- Cụ Phủ dạy như thế thì nhầm
rồi. Cứ gì phải được tiền. Vả chăng, người thua có mấy khi là người dốt chữ
đâu, và kẻ được thường cũng không dám tự đắc lên mặt sành thơ. ở vùng đây lắm
người cũng muốn chơi lắm, nhưng tự xét không đủ tư cách để thả thơ cho ra hồn,
nên chưa có cái lối hội họp như vậy. Tôi muốn được biết ý cụ về việc thả thơ
này.
- Tôi bỏ đã lâu ngày rồi. Nếu
có định chơi thì phải đọc lại thơ mất một dạo, và vòng cho đủ chữ một túi thơ,
kể cũng công phu lắm. Điều tôi ngại nhất nữa, là bây giờ tuổi tác rồi. Bây giờ
lại bày trò vui đó, e có mệt cho tinh thần. Đã thả thơ thì phải ồn ào mới vui.
Còn trẻ trung gì cho nó cam. Mà cụ tưởng ở đây ai đánh nổi. Chữ nghĩa đâu mà
làm cái vốn. Họ dốt chữ, họ thua thơ, mình ăn tiền của họ đã không lấy gì làm hứng
thú mà lại còn mang tiếng rất nhiều nữa.
- Nếu mình cứ thả thơ luôn ở
đây, những người ở vùng quanh sẽ tới. Tôi sẽ rao lên. Cụ kêu người đây ít chữ;
kệ họ. Họ mất tiền mà được lạm dự vào làng thơ phú, họ phải lấy làm sung sướng.
Mà bọn nhà nho nghèo như anh em mình, nhiều lúc cũng nên cho họ chơi trèo một
chút, miễn là họ phải trả tiền. Tục lệ ở hương thôn, khi bán nhiêu bán xã, mua
quan viên cũng không ra ngoài cái ý đó. Vậy bác để tâm đến việc này. Từ mai bác
đọc lại các tập thơ cổ, tìm sẵn những chữ "vòng" chữ "thả"
thì vừa. Cô Tú nhà ta giọng trong và ấm tiếng lắm.
- Để tôi xem xem có nên không
đã.
- Cụ không phải nghĩ nữa. Vậy
xin đính ước với cụ đến tuần trăng sau. ừ, bây giờ chúng ta là cuối hạ. Bắt đầu
sang thu mát trời, thả thơ thì tuyệt. Nhà lại ở bên sông, còn chờ gì mà không
làm một cái nhà bè trên mặt nước. Kể cũng đủ di dưỡng tính tình và đỡ cho khoản
nhật dụng.
Khách đi rồi, cụ Nghè Móm nghĩ
đến hồi trước, cụ đi lại với bạn đồng liêu, những lúc thừa nhàn, không đánh tổ
tôm, chơi cờ tướng, thì lại bày một cuộc thả thơ hay là leo lên một đôi trái
núi đá. Cái buồn thấy đời là ngắn là ít, chớm qua lòng một ông già đã muốn yên
phận với chữ bài.
Bắt đầu từ hôm ấy, những tập
thơ cổ được giũ lớp bụi ngầu và ra khỏi cái níp sách sơn son. Cụ Nghè Móm bắt đầu
nghiền lại tập thơ của người xưa. Đường thi, Tống thi, Minh thi; đọc đến một
bài, đọc hết một câu, gặp được một chữ đột ngột, cụ ngừng lại, ghé mắt kém vào
mặt chữ nhỏ như con kiến, cụ vắt tay lên trán, nghĩ ngợi và lẩm bẩm. Rồi cụ ngồi
nhỏm dậy, sao cả bài thơ ấy vào một cuốn sách giấy bản mới mẻ. Nhưng thường cụ
chỉ trích lấy một câu ở những bài thơ đọc rất kỹ lưỡng đó. Ngày năm câu, ngày
ba câu, một ngày gần đấy, cuốn sách đã đặc những dòng chữ thảo chép những câu
thơ rút ở cổ thi. Cô Tú theo lời cha dặn, đã đi mua sẵn rất nhiều tờ giấy tàu bạch
ra rọc giấy ra từng mảnh dài bằng chiếc đũa và ngang to bằng hai ngón tay. Đám
học trò nhỏ, đầu còn để cái chỏm dài lẩn thẩn hỏi cô Tú, cô vui vẻ trả lời:
- Đừng nghịch, thầy trông thấy,
thầy mắng chết. Giấy này để làm gì à? Thầy sẽ viết những câu thơ cổ vào đấy để
bày ra giữa chiếu những lúc thả thơ.
- Thả thơ? Có làm thơ thì có,
chứ thầy và các anh ấy có nói thả thơ bao giờ.
Cô Tú vốn yêu những cậu học
trò nhỏ tuổi của cha mình như một người chị lớn đối với em út, cô không khỏi
nín cười để giảng:
- Thầy sẽ viết vào mảnh giấy
trắng này một câu thơ bảy chữ mà chỉ... có sáu chữ thôi. Còn một chữ thì để trống
và thay vào đấy một cái khuyên tròn. Cái khuyên tròn thay chữ đó thường gọi là
chữ vòng. Đây này, chị lấy một câu làm thí dụ thì các em rõ ngay. Các em biết
câu: "Quân hướng Tiêu Tương, ngã hướng Tần" đấy chứ? ừ, thí dụ bây giờ
định thả câu thơ ấy. Và định vòng chữ "hướng" ở đoạn dưới. Thầy sẽ viết
vào mảnh giấy nhỏ này: "Quân hướng Tiêu Tương, ngã... Tần". Và khi
ngâm câu thất ngôn có sáu chữ ấy lên thì thường phải ngâm: "Quân hướng
Tiêu Tương, ngã... "vòng"... Tần"; Chữ "vòng" đây thay
vào chỗ để trống. Bây giờ mới nói đến những chữ "thả" ra. Thí dụ thầy
thả năm chữ: cố, tại, vọng, phản và luôn cả cái chữ hướng trong nguyên văn. Thường
chỉ thả có năm chữ thôi.
Tụi trò nhỏ thấy chuyện thả
thơ ngộ nghĩnh, nghe lấy làm khoái trí, trố mắt nhìn cô Tú, giục cô nói tiếp.
- Muốn đánh chữ gì thì chọn lấy
một trong năm chữ mà đánh. Đánh trúng thì một đồng ăn ba đồng. Nhưng mà đây là
chuyện của người lớn tuổi. Các em ra tập bài đi, bao giờ thành người lớn rồi sẽ
biết.
- Nhưng mà biết thế nào là được,
là trúng hả chị? Lạy chị giảng cho một chút nữa, rồi các em xin đi ra bục học
bài ngay, để chị rọc giấy.
- Trên đầu mẩu giấy con này,
thầy sẽ viết cái chữ thả, thí dụ là chữ phản. Rồi thầy cuộn tròn đầu giấy lại,
giấu chữ ấy đi, chỉ còn độ hở cái khoảng viết mấy chữ: "Quân hướng Tiêu
Tương, ngã... Tần", với một cái khuyên tròn vẽ thay vào chỗ trống. Nếu
trong năm chữ cố, tại, vọng, phản, hướng em chọn lấy chữ phản mà đánh mà làm
thành ra câu: "Quân hướng Tiêu Tương ngã phản Tần", thì là em trúng đấy.
Đặt một tiền thì được ăn thành ba tiền...
Tụi trò nhỏ nhìn nhau cười
khúc khích và khi bị cô Tú xua đuổi lên nhà học trên đều ngoái cổ lại cười, nói
một loạt với người con gái lớn của thầy học:
- Bao giờ các em nhớn, học giỏi
được lên tập bài trên trường quan Đốc tỉnh, mỗi khi về thăm lại thầy, chị thả
thơ cho các em đánh với nhá!
Đêm mười bốn tháng tám là cuộc
thả thơ lần thứ hai của cụ Nghè Móm. Lần trước thả vào thượng tuần tháng bảy; lần
này cụ Nghè Móm chọn ngày mười bốn, có người hỏi tại sao không để đến ngày rằm,
cụ nói:
- Trăng mười bốn bao giờ cũng
khéo hơn trăng rằm. Ngày mười bốn là ngày vừng trăng đi tới chỗ toàn thịnh. Ngắm
vừng trăng rằm, người tinh ý sẽ nhận thấy cái vẻ sắp tàn của một vật gì đã mãn
khai trong có một thì.
Những người có chút kinh nghiệm,
đều chịu lời ông già nhận xét là chí phải.
Vừng trăng mười bốn lúc chếch
về đoài đã in một cục bóng thẫm và dài lên mặt con sông trắng và lạnh như thỏi
thiếc vừa nguội. Đấy là bóng chiếc nhà bè lợp lá gồi mà trong đó, cụ Nghè Móm
đang ngồi làm nhà cái, thả thơ cho hàng chục người con đánh. Người ta đang sát
phạt nhau bằng tiền, đem cái may rủi cả vào đến cõi văn thơ và trên mặt nước
sông thu, tiếng ngâm một câu thơ được cuộc, tiếng ngâm một câu thơ thua cuộc mất
ăn tiền, những tiếng đó đều âm hưởng trên làn nước lạnh, thanh âm nghe trong trẻo,
du dương và thái bình như tiếng vang của một hội tao đàn nào.
Mỗi buổi tối thả thơ, cô Tú đều
ngồi bên cạnh cha. Cô bận tay đỡ cái túi thơ của cụ Nghè Móm mở lấy ra từng lá
thơ đặt vào lòng chiếu cho làng chọn chữ đặt tiền. Đôi khi có kẻ chọn phải một
chữ rất quê kệch mà lại trúng vào chữ ăn tiền, cô Tú tủm tỉm nhìn mãi nhà con
đang vơ tiền, chừng như muốn bảo thầm người được tiếng bạc đố chữ đó: "Đấy
ông xem, ở đời ăn nhau ở may rủi, chứ chữ nghĩa tài hoa mà đã làm gì, phải
không ông?".
Tháng lại tháng, cụ Nghè Móm
thả thơ trên mặt sông đã là một chuyện mà một vùng đấy nhắc nhỏm đến luôn luôn.
Nhưng có kẻ ác miệng đã phao lên cái tin cụ Nghè Móm định mượn cuộc thả thơ để
cho con gái lớn gần quá lứa kén chồng.
Từ đấy không thấy cô Tú theo
kèm cha xuống bè nữa. Cụ Nghè Móm không cho cô Tú theo mình đi thả thơ. Từ đấy,
không rõ tại đâu, cụ Nghè Móm hay thua luôn. Và bọn đánh thơ thì uể oải vơ tiền
được, và buồn nhớ đến một cái bóng người đã mượn ít nhiều tiếng tơ mà tô vẽ nhiều
cho lắm buổi đố chữ lấy tiền./.
full-width
Đăng nhận xét