Chương 14: Vườn Xuân Lan Tạ Chủ
Năm mươi năm về trước, du khách ở vùng Thanh Hóa thường
khi đi qua chỗ bến đò ái Sơn, về hữu ngạn con sông Mã, nhận thấy ở vệ đường tay
mặt một khoảnh vườn độ bốn, năm sào, xung quanh trồng toàn một thứ tre đằng
ngà.
Đáng chú ý nhất là cái cổng kiến trúc theo lối cổng
bên Phù Tang hải đảo. Nếu khách biết chữ Hán và đọc được chữ thảo Bát hiền đại
chủ đời Thanh, thời khách nhận thấy ba chữ tên biệt thự viết phỏng theo lối chữ
Tăng Quốc Phiên. Trên cái nền bằng gỗ lim sơn màu "cấn rượu", ba chữ
thếp vàng "Túy lan trang" như hoạt động trên miếng bạch thạch cẩn vào
gỗ đỏ.
Chủ nhân "Túy lan trang", một vị hưu quan, từ
ngày được nộp lại triều đình chiếc ấn vàng, lui về chỗ huê viên, thường để hết
thời giờ vào việc vun trồng, chăm chút một thứ lan rất quý, tìm tận ở Yên Tử
sơn, hồi còn tại chức nơi tỉnh Đông ngoài Bắc. Hoa xưa kia, quen cái khí hậu
nơi đỉnh núi cao; nhất đán hoa về nơi đồng bằng, hoa không khỏi một phen rầu rĩ
với ngày nắng hạ, đêm sương thu chỗ xứ lạ mà lá úa giò gầy. Sớm, chiều hai buổi
thăm hoa, chủ nhân lan viên chỉ lo hoa kia chẳng ở mãi với mình, mà cái công
ngàn dặm chọn đất lành bọc cỏ quý quảy về quê hương sẽ lấy chi đền chuộc lại.
Sau một hồi tàn tạ giữa lan viên, hoa lại bắt đầu cười với gió xuân về. Thoảng
mùi lan đượm, ngắm lá lan xanh rờn trên mấy hàng chậu sứ túy lan lớp đất phủ lần
vỏ sò cùng hòn cuội trắng, chủ nhân như sống một cảnh đời mới. Rồi lan kia như
cảm tình người tri kỷ, ngày một thêm hoa và chả mấy chốc chủ nhân phải lùi lầu
trang về một mé huê viên, nhường nơi đất tốt cho cỏ quý nẩy ngọn thêm cành.
Chủ nhân lấy luôn tên giống lan đặt làm tên biệt thự,
ngụ cái ý yêu hoa và tỏ cho khách qua đường biết vườn nhà đầy cỏ lạ.
Nhớ đến lời sư Cụ chùa Quỳnh Lâm vùng tỉnh Đông dặn lại
sau khi cho giống lan, mỗi bận xuân về, sớm sớm, chủ nhân lại phải cho cả vườn
Túy lan say với hơi rượu thời cái vương giả hương ấy mới còn ở với người thế
gian. Ngày xuân phải bón lan bằng hương rượu, chủ nhân rất lấy làm sung sướng
được gần vùng cất rượu ngon có tiếng ở châu Thang là làng Vĩnh Trị. ái Sơn đối
ngạn Vĩnh Trị và đứng ở Túy lan trang trông rõ đê làng Vĩnh Trị. Những buổi sớm
mùa xuân, mặt nước con sông Mã phẳng lặng như tờ, lại lăn tăn làn sóng nhỏ do
mái chèo đập làn nước của một chiếc thuyền nan bơi từ bến ái Sơn sang bến làng
Vĩnh Trị. Bọn người sinh nhai chỗ duyên giang, dậy sớm đứng trên mạn thuyền để
thở cái không khí trong sạch bình minh vui cười bảo nhau:
"Lại thuyền cô chiêu Tần bên Túy lan trang qua
Vĩnh Trị lấy rượu cho hoa!".
Phải, cô chiêu Tần - con gái ông chủ vườn Túy lan
trang đi lấy rượu về bón huê đấy!
Quan án Trần, vì cái thích chơi hoa, phải giảm những sự
chi dùng trong nhà để có đủ tiền đặt thứ "rượu khê" cho hoa lan, trị
giá hai quan một vò bên làng Vĩnh. Mà mỗi sớm, chèo thuyền đi lấy rượu theo lời
cha dặn, cô chiêu Tần đã diễn ra trên dòng nước sông Mã một cái cảnh tượng giống
như trong tranh thủy mặc của người Tàu. Một người con gái mà cái dáng điệu dịu
dàng đã in theo khuôn nhịp chốn đài trang, tóc búi cánh phượng, áo mặc rộng tay
màu thiên thanh, chân đi dép cỏ mà lại thực hành một cái ý nghĩ chan chứa màu
thơ - ngày xuân cảnh sớm, bơi thuyền lấy rượu cho hoa - đủ làm cho lãng tử được
thấy cái đẹp ấy phải đưa mình vào mộng.
Vươn mình trên con bạch tuấn, cậu ấm Hai nghì cương,
xuống yên, buộc ngựa vào gốc thùy dương, rồi đi tản bộ đến một cái quán dựng
trên đê. Ngồi trên bệ đắp bằng đất sét, cậu ấm Hai như chờ đợi một người và muốn
giết thời giờ, luôn tay phe phẩy cái roi ngựa làm bằng cành liễu khô bẻ ở cổng
huyện Đông Sơn là nơi người cha ngồi chức Huyện úy. Cậu ấm Hai ngồi chờ cô
chiêu Tần đi lấy rượu về. Ngồi đợi người yêu lâu quá sức đợi và khi cúi mặt
nhìn nền mặt đất chực chỗ quán nước, cành liễu khô đập luôn luôn vào đôi má chiếc
giày tàu bằng nhung đen đế gai xe tám sợi, không đủ cho người quên hết những ý
nghĩ về thời gian một khắc một chầy, cậu ấm Hai lại cất mình lên ngựa cho khuây
khỏa nỗi lòng khi vắng bạn. Con bạch tuấn được lỏng cương vế, cũng uể oải lê bốn
vó trên đường. Vó câu một bước lại dừng, con bạch tuấn còn mê man những đám cỏ
non của ngày xuân phủ kín mặt đê dài. Rồi vẳng tiếng hát nơi đầu sông đưa lại.
Cậu ấm Hai nhận thấy được tiếng người quen, gò đôi cương nâng cao đầu ngựa trắng;
lỏng tay buông tay khấu, lần bước dặm đê, ngựa đã từ từ đi xuống nơi dốc chỗ bến
đò. Cậu ấm Hai, cô chiêu Tần cùng nhau thi lễ: người xuống ngựa, khách dừng
chèo, nơi giang đầu lại có cái cảnh tượng như hệt cảnh tả trong bài thơ của Bạch
Lạc Thiên.
- Xin lỗi công tử đã dầy công chờ tiện nữ. Dưới Nguyệt
viên vào đám, đặt nhiều rượu ở bên Vĩnh Trị, nên hôm nay qua lấy rượu cho lan
phải đợi lâu. Vậy công tử sang bản trang từ bao giờ?
- án từ nơi huyện đã xong nên bữa nay gia nghiêm muốn
qua Túy lan trang xem hoa nở. Gốc trầm Quảng Nam buộc ở đầu ngựa này sẽ dùng để
đốt lên trong khi lệnh nghiêm và gia nghiêm cho phép tiểu sinh ngồi trì hồ.
- Quan Lệnh doãn cho công tử mang trầm qua Túy lan
trang như mỗi lần hội diện cùng gia nghiêm, thời bên bàn rượu, trước những giò
lan nở, tiện nữ lại một phen được nghe lại tiếng đàn thập lục của công tử.
Quan Lệnh doãn huyện Đông Sơn là bạn thân và là khách
quý của quan án Trần bên Túy lan trang. Ngày còn làm kẻ thư sinh, hai ông già ấy,
đã cùng thi một trường, thụ giáo một thày và xuất thân cùng một hội. Sóng nước
bể hoạn, tuy không làm chìm đắm nổi khách công danh trong khoảng mấy chục năm
trời, nhưng cũng đã làm cho hai người đòi phen tơ tưởng lúc xa nhau. Hoạn hải từ
ngày thuyền buộc bến, quan án Trần về ở Túy lan trang, cho là một cái diễm phúc
được vui tuổi già gần người cố hữu. Rồi muốn cho cái tình thân ấy được thân hơn
một bực nữa, đôi bạn già ngỏ ý cho nhau rõ rằng sẽ đi lại với nhau bằng cái
tình thông gia gây nên bởi cuộc phối hợp nay mai của hai trẻ. Đều là người hiểu
rõ cái lẽ sự vật trên thế gian, hai ông già không chịu uốn mình theo lề thói giả
dối và thực hành cái luân lý khổ khắc với đôi trẻ thơ. Cho nên còn ở cái thời kỳ
vị hôn phu và vị hôn thê mà cậu ấm Hai cùng cô chiêu Tần thường được gặp nhau
và trò chuyện. Nếu cuộc đời cứ theo cái nhịp êm đềm mà đưa đôi già, đôi trẻ ấy
đi với ngày lụn tháng qua, thời chân hạnh phúc của con người ta, Tạo hóa có lẽ
dành riêng cho nhà họ Trần và nhà quan Lệnh doãn Đông Sơn. Lạc thú hai gia đình
ấy ví có thời mé lầu Túy lan trang bày chi thiên lệ sử; khách tài tình phỏng
ngàn năm không để giận thời giống lan kia, còn cợt mãi gió xuân về! Nếu hầu hết
những hạnh phúc đều giống nhau ở chỗ ấm cúng, êm đềm, đầy đủ thời mỗi nghịch cảnh
lại có bộ mặt riêng tùy theo cái đau đớn của người trong cuộc.
Năm ất Dậu, đời vua Đồng Khánh, vùng Hoan ái phải qua
cơn binh lửa gây nên bởi loạn Văn thân. Cũng có người lấy danh nghĩa mà dúng
tay vào công cuộc phá hoại; nhưng vứt đâu cho hết những kẻ lợi dụng thời cuộc,
làm cho thỏa thích lòng dục trong lúc giao thời trắng đen không tỏ rõ. Cái thời
loạn! Mà thời loạn thời trai thời loạn chứ sao? Cô chiêu Tần sống vào buổi non
sông mờ cát bụi, đã đành trông ngóng cái thời bình. Cậu ấm Hai gặp lúc loạn ly,
không những không có thủ đoạn của kẻ làm trai thời loạn, mà còn tỏ cho người thời
ấy biết rằng một kẻ thư sinh chỉ có cái tâm hồn lãng mạn là một người chọn lầm
thế kỷ. Chọc trời khuấy nước, trong khi người ta ham chuộng cái sức khỏe mà chỉ
biết có ngón đàn, hiểu có hồn hoa, thời ở tâm người tài tử, buồn, tủi, cực đến
dường nào! Trước những cái tin máu, xương thành sông núi, trăm họ bị làm cỏ,
hai trái tim thơ ngây, của cô chiêu Tần và cậu ấm Hai, đều đập chung một điệu
hãi hùng. Riêng về phần quan án Trần, thời thân già đã không lấy làm quan tâm đến
vóc xương khô, còn những lo cho hoa, làm sao ngăn nổi gót chân đám người ô hợp
nếu một mai chúng tràn đến.
Quan Lệnh doãn Đông Sơn lo việc tuần tiễu quân nghịch
cũng thưa đi lại trên quan án Trần. Nơi Túy lan trang, hoa thường vẫn nở, người
thường vẫn không chểnh mảng việc vun xới cho hoa mà chỗ lan viên lần lần như đã
thấy cảnh điêu tàn. Không phải tại người, không phải tự hoa; chỉ tại cái không
khí nặng nề của thời loạn phảng phất trên chỗ hoa viên.
Một đêm kia, về quãng cuối năm Bính Tuất, mưa tuôn rả
rích, gió thổi vù vù, một cái đêm đông đầy những sự bí mật tối đen.
Cô chiêu Tần, kinh động mở mắt dậy. Mé lầu trang lửa đỏ
ngất trời. Tiếng người đi lại nhộn nhịp. Tiếng người quát tháo dữ dội. Họ nhét
giẻ vào miệng cô chiêu Tần, rồi vực đi. Chỗ bến đò ái Sơn, bốn chiếc thuyền từ
từ dời bến. Đứng trên mui thuyền có tiếng người con gái gào khóc, một người vạm
vỡ mặc quần áo đen, quấn khăn đầu rìu, tay cầm một cây "hồng" đốt bằng
giẻ tẩm dầu, soi sáng quắc mặt nước con sông.
Bên Túy lan trang, lửa vẫn đỏ ngòn mà tịnh không ai cứu
hỏa. Tre và gỗ chỗ lầu trang thi nhau mà cháy trước những ngọn lửa xanh lè liếm
quanh loài thảo mộc. Lúc mà ngọn lửa đám cháy không soi rõ những đám lan xanh rờn
trên chậu sứ, thời canh đã sang tư. Đêm tăm tối buông một bức màn bí mật, lạnh
lẽo lên trên chỗ hoa viên tàn tạ. Chỗ đầu sông, đàn đóm lập lòe nơi bến nước,
gió đêm vi vút bãi lau già!
Sớm hôm sau, các người ở vùng đấy, ngồi triết lý
suông, giữa hai ngụm nước chè tươi nơi quán:
- Quan án Trần cũng vì bị kinh động, cảm xúc mạnh quá
mà chết. Cô chiêu Tần, thuyền cướp mang đi. Cái biệt thự kia bị cháy ra tro.
Cho hay sống vào thời loạn, cái phú quý và cái sắc đẹp cũng nhiều khi là cái mầm
vạ lớn.
Từ khi lan vắng chủ, từ khi hoa không người nâng giấc,
giống cỏ quý kia cũng quyết tạ theo tri kỷ, thề không ở lại với thế gian. Vả
chăng người giai nhân đã đi, cái hào hoa cũng tận. Cái thuật cất "rượu
khê" bên làng Vĩnh Trị, cũng không ai truyền lại cho ai nữa, để lại một mối
tiếc cho "làng men" mỗi khi nhắc tới cái phong vị hồi cận đại.
Sau cái đêm dữ dội ấy, cây cỏ nơi Túy lan trang đều một
loạt ủ rũ như để tang cho người thiên cổ. Tơ liễu khóc mưa, tóc tùng reo gió,
bóng tre lìa bụi, đều ngậm một cái tình buồn trước cái hương trời lăn lóc khoảnh
vườnhoang. Lan đã biết tạ chủ, thời cỏ cây kia há kém ai!
Để lại bên sông một khoảnh đất cao hơn mặt ruộng, đứng
xa trông như một cái gò phát bằng ngọn, ngày nay, Túy lan trang chỉ còn là một
chỗ đi về của đám mục đồng. Tụi trẻ kia không biết kính trọng cái âm phần của
giống Túy lan khi yên giấc sau lúc tạ chủ, cho trâu bò giẫm nát cả mồ hoa!
Thiên "thảm sử Túy lan trang" cũng đi theo với
thời gian và bị xóa nhòa trong trí nhớ người đồng thời. Ngày nay du khách đi
qua vùng ái Sơn đất Thanh Hóa, nghe thấy những danh từ "Gò Lan tạ" và
"Quán cậu Hai" phải hỏi mãi mới ra nghĩa cũ. "Gò Lan tạ" là
nền tảng Túy lan trang và là cái nơi vùi hoa lan; "Quán cậu Hai" là
nơi cậu ấm Hai nghỉ ngựa trước khi gặp người ngọc chỗ lầu trang, vẫn hết sức
giơ cái thân tàn chịu lấy cái gió mưa nơi đầu bến. Gò, quán kia đã ghi vào
trong tâm trí khách chơi hoa một cái kỷ niệm buồn rầu. Vườn xuân lan tạ chủ;
đàn đóm lập lòe nơi bến nước mà gió đêm vi vút bãi lau già...
Tiểu thuyết thứ bảy, 1935
full-width
Đăng nhận xét